Tuesday, April 24, 2018

BỆNH VÀ NGHIỆP

1. Loại thứ nhất là bệnh sinh lý do đi đứng ăn uống không điều độ.

Người xưa thường nói “bệnh từ miệng vào”, chúng ta ăn uống không vệ sinh, không khoa học; ở, ăn mặc không lưu ý nên bị cảm mạo phong hàn. Những thứ bệnh này thuộc về sinh lý cần tìm bác sĩ chẩn đoán trị liệu.

2. Loại bệnh thứ hai, oan gia trái chủ tìm đến thân.

Loại bệnh này không thuộc sinh lý, thuốc thang sẽ không có hiệu quả, thầy thuốc cũng không thể trị hết. Chỉ có phương pháp duy nhất, đó là hòa giải cùng oan gia trái chủ để họ tiếp nhận, đồng ý và rời khỏi. Cho nên pháp sự siêu độ thông thường dụng ý chính là hòa giải, tiếp nhận cũng có không ít. Thế nhưng trường hợp không tiếp nhận cũng có, làm cho vấn đề trở nên khó khăn hơn.

3. Loại bệnh thứ ba là bệnh nghiệp chướng, không phải sinh lý cũng không phải oan gia trái chủ mà do chính mình tạo nghiệp quá nặng.

Loại bệnh này rất phiền phức, thầy thuốc chào thua, siêu độ cũng không tác dụng. Đức Phật nói, loại bệnh nghiệp chướng này chỉ có một phương pháp đối trị, chính là chân thành sám hối. Bồ tát Phổ Hiền dạy chúng ta sám trừ nghiệp chướng, bệnh liền có thể hết. Trong Phật pháp, nếu biết được căn nguyên của bệnh này, hiểu được phương pháp đối trị, chúng ta không cần phải tốn nhiều tiền oan uổng, quan trọng nhất phải dùng tâm chân thành sám hối, tụng kinh niệm Phật hồi hướng.

Thế nhưng điều trị vẫn là phương thức cần thiết. Nó có thể giúp chúng ta hồi phục sức khỏe, quan trọng vẫn từ nơi nội tâm mà sám hối, đoạn ác tu thiện.

“Kính thưa Quý vị oan gia trái chủ trên thân tôi. Từ vô thỉ kiếp đến nay, tôi vì vô minh mê muội nên trong lúc hữu ý vô ý đã làm tổn hại đến quý vị. Nay tôi có được thân người và có cơ may kết duyên với Phật pháp, tôi không quên quý vị. Nếu quý vị nhất định trả thù tôi, tôi không còn cách khác ngoài việc chấp nhận quả báo; vì nhân này là do tôi tự gây ra. Nhưng tôi thấy cách này chỉ làm quý vị khoái lạc nhất thời, vẫn không giải quyết được vấn đề căn bản, giải thoát sanh tử. Nên tôi hi vọng quý vị thâu lại thân tâm nghe tôi niệm Phật & niệm chung với tôi để chúng ta cùng vượt khỏi sanh tử luân hồi. Từ nay trở đi, khi làm bất cứ một việc thiện lành gì tôi đều hồi hướng cho quý vị, mong quý vị hãy tha thứ cho tôi, đừng làm chướng ngại tôi. Tôi biết nếu như uống thuốc sẽ làm tổn hại đến quý vị; nên tôi quyết định không dùng đến thuốc để tiếp tục oan oan tương báo. Từ giờ trở đi, tôi chỉ dùng phương pháp niệm Phật là nước từ bi để lấy đức báo oán, mong quý vị chấp nhận sự sám hối chân thành này của tôi”.



Phật Tế Công nói rằng : “hy vọng những người ưa thích ăn thịt chúng sanh có thể sớm ngày thể ngộ được tầm quan trọng của việc giới sát và phóng sanh, tuyệt đối chớ có lại cứ mãi cố chấp muốn tham ăn khẩu phước. Các con liệu có biết rằng ơn trên đối với mỗi một chúng sanh đều có định sẵn một quyển sổ công đức tiêu chuẩn để tính đổi.
 
Ví dụ như nói ăn một con cá thì phải đọc tụng một bộ kinh. Con cá đó nếu như có bao gồm cả trứng, thì phải độ 3 người.
Ăn thịt một con gà thì phải độ 2 người.
Ăn thịt một con vịt, con ngan ( ngỗng ) thì phải độ 8 người;
Ăn thịt một con chim bồ câu càng phải độ được 54 người.
Còn người ăn thịt một con heo thì phải độ 72 người.
Những ai mà bình thường thích ăn bò, ngựa, hươu, dê, chó, rắn, thỏ … thì phải độ 108 người.
 
Lại còn những người tham ăn những cái gọi là sơn hào hải vị thì cũng có phần.
 
Ví dụ như nói :
 
Ăn bào ngư vi cá thì phải độ 360 người.
Ăn thịt hổ thì phải độ 380 người.
Ăn một chiếc tay gấu thì phải độ 385 người,
Ăn óc khỉ thì phải độ 720 người.
 
Vậy nên các đồ nhi ơi ! Dựa vào những công đức mà các con ở phật đường tu bàn đã đắc được, làm sao mà kịp để trả nợ đây ? Đến bây giờ vẫn chưa biết tầm quan trọng của thanh khẩu trường chay đó sao ? ” Thầy lắc lắc đầu bó tay hết cách.

https://www.youtube.com/watch?v=FpdiOjCv3iQ
 

DƯỠNG SANH HUẤN

Thuở 20 tuổi, lấy 7 ngày / 1 lần;
Khi 30 tuổi, lấy 14 ngày / 1 lần;
Lúc 40 tuổi, hãy nên 28 ngày / 1 lần;
Khi 50 tuổi, hãy nên 45 ngày / 1 lần;


Tới lúc 60 tuổi, thiên quý (tinh thủy) đã tuyệt, chẳng thể phát sanh nữa, hãy gấp nên đoạn sắc dục, dứt bặt chuyện phòng the, kiên cố tinh tủy. Lấy sự thanh khiết, bế tàng làm gốc, muôn vàn chớ nên cho nó tiết ra.

Số ngày hạn chế như đã nói trên đây là nói theo hai mùa Xuân và Thu, chứ trong hai mùa Đông và Hạ, [hành dâm vào mùa Hè] sẽ khiến cho hỏa bốc lên hết sức nóng, tinh tiết ra chẳng còn sót gì. Hai là [hành dâm vào mùa Đông] khiến cho Thủy bị cực hàn. Hãy nên bế tinh, tàng khí nghiêm ngặt. Bởi lẽ, khí của trời đất và con người được phong bế hết sức kín vào mùa Đông, chuyên để làm cội gốc phát khởi cho mùa Xuân, càng quan trọng hơn mùa Hạ gấp mười lần. Người tuân theo cách thức này, có thể chẳng có bệnh, tăng thọ. Kẻ trái nghịch điều này, ắt sẽ lắm bệnh, giảm thọ.

Sách “Dưỡng Danh Huấn” của ông Bố Nguyên Ích Hiên cho rằng một đời người chỉ được phép quan hệ tối đa là 1.800 lần mà thôi, không được vượt quá. Sự thụ hưởng ở đời quả thật có một giới hạn nhất định, không nên vượt quá, cần phải điều độ.
...

Người xưa nói thân người có ba vật báu, đó là: Tinh, Khí, Thần quyết định: Sức khỏe, Trí tuệ và Tuổi thọ. Y gia luyện Tinh, Khí, Thần để khỏe mạnh trừ bệnh, Võ gia luyện Tinh, Khí, Thần để thành cường giả, Đạo gia lấy Tinh, Khí, Thần làm nguyên liệu luyện nội đan để phản lão hoàn đồng.
 
Trong ba báu vật ấy, Tinh là căn bản, Tinh đầy đủ thì thân thể tươi đẹp; Tinh có thể hóa Khí, Khí đầy đủ thì hoạt bát khỏe mạnh, trong có thể chống bệnh, ngoài có thể kháng tà; Khí có thể hóa Thần, Thần đầy đủ thì tỉnh táo linh mẫn, trí tuệ khai thông. Gìn giữ được Tinh, Khí, Thần thì khỏe mạnh, sáng suốt, trường thọ, sự nghiệp dễ thành; tiêu tán Tinh, Khí, Thần thì bệnh tật, chết sớm nói gì sự nghiệp.
...
 

Phàm xác thân con người, tuy mắt phàm coi thân hình như một, chớ kỳ trung nơi bổn thân vốn một khối chất chứa vàn vàn muôn muôn sanh vật. Những sanh vật ấy câu kết nhau mà thành khối (la formation des cellules). Vật chất ấy có tánh linh. Vì chất nuôi nấng nó cũng đều là sanh vật; tỉ như rau, cỏ, cây, trái, lúa, gạo, mọi lương vật đều cũng có chất sanh.

Nếu nó không có chất sanh thì thế nào tươi tắn và chứa sự sống, như nó khô rũ thì là nó chết. Mà các con nào ăn vật khô héo bao giờ. Còn như nhờ lửa mà nấu thì là phương pháp tẩy trược đó mà thôi, chớ sanh vật bị nấu chưa hề phải chết.

Các vật thực vào tỳ vị, lại biến ra khí; khí mới biến ra huyết. Nó có thể hườn ra nhơn hình, mới có sanh sanh tử tử của kiếp nhơn-loại. Vì vậy một giọt máu là một khối chơn linh.

Như các con dâm qúa độ thì là sát mạng chơn linh ấy. Khi các con thoát xác thì nó đến tận nghiệt đài mà kiện các con. Các con chẳng hề chối tội đặng.
 
...

Yếu quyết của việc dưỡng sinh diên mệnh là:

-Bế tinh (gìn giữ chất tinh hoa của cơ thể)
-Dưỡng khí (nuôi dưỡng khí lực, tính tình)
-Tồn thần (không làm hao tán tinh thần)
-Thanh tâm (giữ lòng trong sạch)
-Quả dục (tiết dục, ít ham muốn, thường tự biết đủ)
-Thủ chân (giữ mình theo đạo lý)
-Luyện hình (rèn luyện thân thể)


Cảnh giới luyện khí sơ cơ nhất của Đạo gia là Bách Nhật Trúc Cơ, nghĩa là 100 ngày liền thanh tâm tiết dục, nhờ vậy tích trữ được một lượng tinh khí dồi dào để làm nguyên liệu luyện nội đan. Đan đã thành thì trường xuân diên thọ, bệnh tật khó xâm. So với cái thú của đắc đạo thì dục lạc cõi đời không thể nào sánh được, cho nên đã đắc đạo thì chẳng quay về đường trần tục, như đã ở cung vua thì chẳng muốn quay về lại chuồng trâu.

Từ cổ chí kim, Thánh nhân của mọi dân tộc đều lấy tâm thanh tịnh làm thức ăn, lấy lòng vô dục làm thuốc bổ còn phàm phu tham sống nhưng lại đem tính mệnh để đổi lấy tà dâm. Đề xướng nam nữ hành dục, “lấy âm bổ dương” để trường sinh là luận điệu của những kẻ tà kiến tu mù luyện đui. Đã là chân nhân thì khẩu nghiệp thanh tịnh, chẳng nói những chuyện làm tăng trưởng dục vọng của chúng sinh (Xem kinh Thọ Giới Mười Nghiệp Lành), tu luyện mà ưa nói những chuyện dâm dục là kẻ hành ma đạo.
...

Giới dâm / Phạm Võng Bồ Tát giới bản kinh giảng ký

Nếu Phật tử tự mình dâm dục, bảo người dâm dục với tất cả phụ nữ, các loài cái, loài mái, cho đến thiên nữ, quỷ nữ, thần nữ, cùng phi đạo mà hành dâm (các hành vi tình dục trái lẽ tự nhiên) dưới mọi hình thức: nhân dâm dục, duyên dâm dục, cách thức dâm dục, nghiệp dâm dục. Là Phật tử, đối với tất cả mọi đối tượng trên, không được cố ý dâm dục và phải có lòng hiếu thuận, cứu độ tất cả chúng sanh, đem pháp thanh tịnh răn dạy người; trái lại, không có tâm từ bi, làm cho mọi người sanh việc dâm dục, không phân biệt súc sanh cho đến mẹ con, chị em trong lục thân cũng hành dâm. Phật tử này phạm Ba La Di tội (tội nặng nhất).

Đoạn dâm / Bốn điều răn dạy minh bạch về tính thanh tịnh / Kinh Thủ Lăng Nghiêm

Đức Phật bảo: A-nan, thu nhiếp cái tâm thế nào thì gọi là giới?

Nếu chúng-sinh lục-đạo các thế-giới, cái tâm không dâm, thì không đi theo dòng sinh-tử tương tục. Ông tu phép Tam-muội cốt để ra khỏi trần-lao, nếu không trừ lòng dâm, thì không thể ra khỏi trần-lao được.

Dầu có nhiều trí thiền định hiện tiền, nếu không đoạn lòng dâm, cũng chắc lạc vào ma đạo, hạng trên thành ma vương, hạng giữa thành ma dân, hạng dưới thành ma nữ; các bọn ma kia cũng có đồ chúng, mỗi mỗi tự xưng là thành đạo vô thượng. Sau khi ta diệt độ rồi, trong đời mạt pháp, có nhiều bọn ma nầy sôi nổi trong thế gian, gây nhiều việc tham dâm, lại giả làm người thiện tri thức, khiến cho các chúng sinh sa vào hầm ái kiến; bỏ mất con đường Bồ đề.

Ông dạy người đời tu pháp Tam-ma-đề, trước hết phải đoạn cái dâm trong tự tâm. Ấy gọi là lời dạy-bảo rõ-ràng thanh-tịnh, quyết-định thứ nhất của các đức Như-lai Tiên-Phật Thế-tôn.

Vậy nên ông A-nan, nếu không đoạn lòng dâm mà tu thiền-định, thì cũng như nấu cát, nấu đá muốn cho thành cơm, dầu trải qua trăm nghìn kiếp cũng chỉ gọi là cát nóng, đá nóng, vì cớ sao? Vì đó là giống cát, giống đá, không phải là bản-nhân của cơm vậy. Ông đem thân dâm cầu diệu-quả của Phật, dầu được diệu-ngộ, cũng chỉ là gốc dâm, cỗi-gốc đã thành dâm, thì phải trôi-lăn trong tam-đồ, chắc không ra khỏi, còn đường nào tu-chứng Niết-bàn Như-lai.

Chắc phải khiến cho thân tâm đều đoạn hết giống dâm, cho đến tính-đoạn cũng không còn nữa, thì mới trông-mong chứng quả Bồ-đề của Phật. Như lời tôi nói đây, gọi là lời nói của Phật; không như lời nói đó, tức là lời nói của ma Ba-tuần.”

Phẩm Tham ái / Kinh Pháp cú:

334. Người sống đời phóng dật, Ái tăng như giây leo. Nhảy đời này đời khác, Như vượn tham quả rừng.
335. Ai sống trong đời này, Bị ái dục buộc ràng, Sầu khổ sẽ tăng trưởng, Như cỏ Bi gặp mưa.
336. Ai sống trong đời này, Ái dục được hàng phục, Sầu rơi khỏi người ấy, Như giọt nước lá sen.
337. Ðây điều lành Ta dạy, Các người tụ họp đây, Hãy nhổ tận gốc ái, Như nhổ gốc cỏ Bi., Chớ để ma phá hoại, Như giòng nước cỏ lau.

Kinh Pháp diệt tận:

Khi kiếp sắp hết, vòng quay của mặt trời và mặt trăng trở nên ngắn hơn và mạng sống của con người giảm lại. Bốn mươi tuổi đầu đã bạc. Đàn ông dâm dục, cạn kiệt tinh dịch nên sẽ chết trẻ, thường là trước 60 tuổi. Trong Khi mạng sống của nam giới giảm, thì mạng sống cuả nữ giới tăng đến 70, 80, 90 hoặc đến 100 tuổi. Những dòng sông lớn sẽ dâng cao bất thường không đúng với chu kỳ tự nhiên, nhưng con nguời không để ý hoặc không quan tâm. Khí hậu khắc nghiệt được xem là điều bình thường. Người thuộc các chủng tộc lai tạp lẫn nhau không phân quý tiện, chìm đắm, trôi nổi như cá rùa kiếm ăn.

Một pháp bất hạnh / Phẩm giới dâm / Kinh Tăng nhất A Hàm:

Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

-Ở trong chúng này, Ta không thấy một pháp nào đã thực hành rồi, đã thực hành nhiều rồi thành hạnh địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh; nếu sanh trong loài Người ở nhà gian dâm không có tịnh hạnh, bị người chê bai, thường bị phỉ báng. Thế nào là một pháp? Ðó là tà dâm.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

-Nếu có người dâm dật vô độ, thích xâm phạm vợ người, liền đọa trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, nếu sanh trong loài Người, khuê môn dâm loạn. Thế nên các Tỳ-kheo thường nên chính ý, chớ khởi nghĩ dâm, cẩn thận chớ dâm người khác. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này!

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
..

Phải kiêng kị trong những ngày như ba tháng trường trai trong năm, sáu ngày ăn chay trong tháng, dưới ánh sáng của trăng, sao, mặt trời và ngày Bát vương.

..

Kinh Thiền bí yếu:

Khi người tu hành khởi lên lòng dục thì cả ngày đêm họ đều nghĩ đến chuyện dâm dục như cứu đầu mình đang cháy thì nên nhanh chóng ngăn cản ngay. Việc đầu tiên của phương pháp ngăn cản nó là quán tử tạng. Tử tạng nằm trên dưới sinh tạng và trên thục tạng, có chín mươi chín lớp màng như bào thai heo chết, trong đó chứa đầy chất lỏng hôi hám, hình dáng như ruột ngựa, đầu tròn đuôi nhọn, kéo dài đến sản môn. Chính giữa có một nghìn chín trăm đốt nhỏ như đường gân trên lá chuối, xung quanh có tám vạn ổ vi trùng bu bám. Khi người phụ nữ ăn uống vào nó liền phân tán thành bốn trăm lẻ tư mạch máu. Sau khi ăn xong, những thứ chúng nó nôn ra thành mủ có màu như máu. Lại có loại trùng nhỏ chạy nhảy trong đó, sau một tháng tích tụ, không thể chứa được. Vì thế người nữ có kinh nguyệt.

Kinh lại nói: Trong bốn trăm lẻ tư mạch máu trong cơ thể đàn ông đều xuát phát từ con mắt rồi chảy dài đến ruột. Nằm dưới sinh tạng và trên thục tạng. Hai bên có mủ màu xanh sẫm như tinh dịch trâu rừng, hôi hám không chịu được, khi gần đến âm hộ nó chia thành ba nhánh, như đường gân trên tàu lá chuối, có một nghìn hai trăm đường răn như thế, mỗi đường gân đều có loại trùng gió, nhỏ bằng sợi tơ. Bên ngoài trùng gió có loại trùng màu sắc như sợi gân, độ bảy vạn tám nghìn con như thế vây quanh thành hình vòng tròn. Khi mắt người dàn ông nhìn thấy nữ sắc, lòng họ nổi dậy ham muốn, khi tâm xao động thì bốn trăm lẻ bốn mạch máu cũng chuyển động, tất cả tám vạn ổ vi trùng đều há miệng, mắt nó phun nước, nước đó có màu trắng xanh hoá làm tinh dịch, chảy ra theo đường tiểu tiện.

Đức Phật nói với Xá lợi phất: Nếu bốn chúng đệ tử xuất gia mặc áo hổ thẹn, uống thuốc hổ thẹn, muốn cầu giải thoát thì nên học phép quán này, như được uống cam lộ. Nghĩ tưởng tử tạng, căn người phụ nữ, các loại sâu dòi trong cơ thể người đàn ông đang há miệng dõng tai, trợn mắt phun mủ. Ngồi yên lặng giữ hơi thở, quán tất cả những hiện tượng đó, nhớ rõ ràng như những hoa văn trên các ngón tay. Khi mở mắt nhắm mắt đều thấy rõ ràng. Khi phép quán này thành tựu rồi thì lòng tham dục liền được tiêu diệt. Dù con gái con trai nhà trời cũng như người phung hủi. Thân này hay thân khác, cho đến tất cả chúng sinh trong cõi Dục cũng như thế cả. Nếu nếm được loại thuốc này đó mới là người trượng phu, làm vị thầy của trời, người, không bị nhấn chìm trong dòng sông ái. Nên biết những người này, tuy chưa khỏi sinh tử nhưng cơ thể họ đã ngát hương như hoa Ưu bát la, là bậc hương tượng trong của mọi người, lực sĩ vua rồng, trời Ma hê thủ la cũng không sánh được họ.

https://phapmonniemphat.wordpress.com/2016/08/29/4358/2/

Thursday, April 12, 2018

NÓI NHIỀU CHÁNH NIỆM HAY NÓI ÍT TÂM LOẠN

”Nói nhiều chánh niệm hay nói ít tâm loạn ?!”

Vậy thì thế nào là nói trong chánh niệm?

Giao tiếp hàng ngày trong cuộc sống thì ta phải xác định được các neo tâm như: nói cái gì, nói với ai, nói vào lúc nào, nói với tâm trạng nào (với tâm tham, sân, si hay với tâm từ, bi, hỷ, xả).

Nếu tính đến “nói nhiều” thì Đức Phật là người nói nhiều nhất và không có người thứ hai trong thế gian “nói nhiều” bằng Ngài. Thậm chí ngoài giờ khất thực, hành thiền, nghỉ ngơi là Ngài thuyết pháp ban ngày cho người, ban đêm cho chư thiên không ngừng nghỉ. Thậm chí trước giờ nhập Niết bàn, Ngài còn thuyết bài pháp cuối cùng dặn dò các để tử đứng xung quanh. 

Một số bạn trẻ ngày nay đi học thiền minh sát, sau khi trở về sợ nói nhiều vì lo mất chánh niệm. Điều này ban đầu thì rất tốt, nhưng nếu thái quá và không hiểu đúng pháp hành minh sát tuệ thì sẽ rơi vào thụ động, chấp thủ, thậm chí thành lăng kính mới, bản ngã mới khi khen chê việc nói ít, nói nhiều là có chánh niệm nhiều hay ít dẫn tới chỉ tiếp xúc pháp hành ở cái vỏ bên ngoài và không thấy lõi bên trong. Điều đa số mọi người không nhận ra là tiếng nói trong tâm tưởng, không nói ra lời mà tâm minh sát tuệ không ghi nhận ra được thì gọi là thất niệm, thậm chí thái quá thì dễ bị trầm cảm. Thay vì Tuệ minh sát tăng trưởng thì bị chậm lụt, sai nhầm.

Tư niệm thực chính là “tiếng nói trong tâm”, gây nên việc không nói hay nói ít mà tâm loạn. Tiếng nói trong tâm mới là mấu chốt chánh niệm chứ không phải tiếng nói bằng lời ngoài miệng.

Để khắc chế hay giảm bới cơn nghiện này thì ta tập cho tâm nghỉ ngơi (neo tâm) trên điểm xúc chạm hơi thở đầu mũi, hay phùng xẹp ở bụng khi thực hành thiền Tứ Niệm Xứ.

Chính vì thế việc nói ít hay nói nhiều không quan trọng bằng việc ta nói có chánh niệm hay không. Nếu không nói mà có chánh niệm lúc này ta có thực tại. Khi bắt đầu nói mà ta có các điểm neo tâm vào sau mỗi câu nói thì ta gọi là thực tại gần nên cũng có thể nói là nói trong chánh niệm hay chánh niệm liên tục.

Kết luận: Để “nói nhiều trong chánh niệm và nói ít mà tâm không loạn” thì cần có 4 điểm neo tâm như sau:

1.Thấy tâm neo vào điểm xúc chạm hơi thở hay phùng xẹp ở bụng (mọi lúc, mọi nơi)

2.Biết nói với ai (tuổi tác, trình độ, mức thân quen)

3.Biết nói cái gì (lý luận phù hợp với căn cơ), vào lúc nào (thời điểm thích hợp)

4.Biết khi nói với tâm gì (nói với tâm tham, sân, si hay với tâm từ, bi, hỷ, xả)

Hiểu đúng pháp hành ta sẽ thực hiện đúng và thuận lợi. Hiểu sai pháp hành ta sẽ thấy khúc mắc và khó khăn.

Như vậy nói nhiều, nói ít hay im lặng không phải là vấn đề, mà vấn đề là ta có có được chánh niệm hay không trong lúc nói, cả khi im lặng và phương pháp thực hành để có được chánh niệm mọi lúc mọi nơi mà thôi.

Thực hành lâu ngày thì tâm sẽ bớt nghiện loại thức ăn này khi nó dừng ăn (Tư niệm thực chính là “tiếng nói trong tâm”, gây nên việc không nói hay nói ít mà tâm loạn.). Khi tâm dừng ăn tư niệm thực chính là lúc tâm neo vào các đối tượng, các đề mục, ở đây và bây giờ xung quanh ta, lúc này ta đang có chánh niệm. Như vậy chánh niệm rất quan trọng vì nó là kỹ thuật cơ bản để loại bỏ tư niệm thực hay nói cách khác là loại bỏ tiếng nói trong tâm.

https://thayvabiet.com/2014/08/25/noi-nhieu-chanh-niem-hay-noi-it-tam-loan/

https://www.budsas.org/uni/u-vbud/vbkin038.htm

https://quangduc.com/a52138/vo-niem-trong-phap-bao-dan-kinh

https://tuniemxu.one/noi-nhieu-chanh-niem-hay-noi-it-tam-loan/


”Nói nhiều chánh niệm hay nói ít tâm loạn ?!” Câu nói này có vẻ rất vô lý với người đang học thiền minh sát tuệ. Đúng như vậy. Khi học thiền minh sát, mọi người sẽ được học câu: “Càng nói nhiều càng phiền não. Càng phiền não càng nói nhiều”. Sự vận hành của thân và tâm đều do tâm dẫn đầu (ý dẫn đầu các pháp). Rồi sau đó xuất ra khẩu (lời nói) và hành động. Khẩu hành làm con người đánh mất thực tại. Vì khi nói ra lời là phải vận dụng ngôn ngữ, khái niệm, tưởng tượng, suy đoán,…là những chế định pháp (pháp khái niệm đều không phải thực tại (xem thêm thực tại còn gọi là pháp chân đế). Mỗi âm thanh, lời nói sinh lên rồi diệt ngay nhưng ta vẫn bị dính mắc trong tâm tưởng cảm giác như nó vẫn còn đó, nó là ta và của ta. Vì vậy, người mới học thiền minh sát hay chưa thuần thục thì càng ít nói càng tốt để tăng cường chánh niệm, tức là tăng cường khả năng nhận diện tâm sinh lên và diệt đi như ý muốn nói, cảnh quá khứ hay vị lai trong tâm…để có được sự tiếp xúc với thực tại, những gì xảy ra xung quanh ta, ở đây và bây giờ càng nhiều càng tốt.

Vậy thì thế nào là nói trong chánh niệm?. Giao tiếp hàng ngày trong cuộc sống thì ta phải xác định được các neo tâm như: nói cái gì, nói với ai (khế lý khế cơ), nói vào lúc nào, nói với tâm trạng nào (với tâm tham, sân, si hay với tâm từ, bi, hỷ, xả). Giống như neo tâm nơi hơi thở ở điểm xúc chạm. Nếu trong khi nói ta rà soát liên tục các điểm neo tâm này thì ta sẽ sẽ trở về thực tại ở những điểm này mỗi khi phóng tâm theo lời nói. Nhờ có sự chánh niệm này thì sự tỉnh giác sẽ đến với ta trong suốt quá trình nói. Nhờ có sự tỉnh giác mà ta sẽ không có phiền não sinh lên. Nhờ không có phiền não sinh lên mà ta có an lạc tự tại. Hiểu được điều này chúng ta mới thấy được Đức Phật là người để lại khối lượng đồ sộ các lời giáo huấn qua lời nói trực tiếp và được ghi chép lại trong các bộ kinhh tạng Nikaya mà mỗi đoạn kinh, mỗi lời nói vẫn rất sống động, thực tế vì Ngài nói cho đối tượng là chư thiên và loại người với mọi căn cơ cao thấp khác nhau (khế lý, khế cơ). Thậm chí ngoài giờ khất thực, hành thiền, nghi ngơi là Ngài thuyết pháp ban ngày cho người, ban đêm cho chư thiên không ngừng nghỉ. Thậm chí trước giờ nhập Niết bàn, Ngài còn thuyết bài pháp cuối cùng dặn dò các để tử đứng xung quanh. Nếu tính đến “nói nhiều” thì Đức Phật là người nói nhiều nhất và không có người thứ hai trong thế gian “nói nhiều” bằng Ngài. Nhưng vì Đức Phật nói trong chánh niệm, tỉnh giác và khế lý, khế cơ với đối tượng nghe hoàn toàn, trọn vẹn nên những lời “nói nhiều” của Ngài được gọi là Kinh điển, là lời của bậc Thánh nhân có một không hai trên thế gian này. Ngày nay, các thiền sư là những người ít nói nhất trong tất cả chúng ta, nhưng khi thuyết pháp giảng kinh kéo dài hàng giờ đồng hồ, các ngài cũng phải vận dụng các điểm neo tâm trở về thực tại, để có thể giảng giải trong chánh niệm và tỉnh giác cho chúng ta được khai tâm, được tiếp xúc với hương vị pháp bảo thông qua khẩu hành và pháp hành của các ngài.

Một số bạn trẻ ngày nay đi học thiền minh sát, sau khi trở về sợ nói nhiều vì lo mất chánh niệm. Điều này ban đầu thì rất tốt, nhưng nếu thái quá và không hiểu đúng pháp hành minh sát tuệ thì sẽ rơi vào thụ động, chấp thủ, thậm chí thành lăng kính mới, bản ngã mới khi khen chê việc nói ít, nói nhiều là có chánh niệm nhiều hay ít dẫn tới chỉ tiếp xúc pháp hành ở cái vỏ bên ngoài và không thấy lõi bên trong. Điều đa số mọi người không nhận ra là tiếng nói trong tâm tưởng, không nói ra lời mà tâm minh sát tuệ không ghi nhận ra được thì gọi là thất niệm, thậm chí thái quá thì dễ bị trầm cảm. Thay vì Tuệ minh sát tăng trưởng thì bị chậm lụt, sai nhầm. Vì thế bài viết này viết về việc nhận diện tiếng nói trong tâm bằng pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ.

Ở đây, chúng ta nên biết thức ăn cho thân có một loại là đoàn thực (vật thực) thì thức ăn cho tâm lại có một lúc cả ba loại là xúc thực (cảm xúc), tư niệm thực (ý nghĩ, tư tưởng), thức thực (các trần cảnh). Thân chúng ta chỉ ăn ngày 3 bữa, nước uống khi cần trong ngày, nhưng tâm chúng ta luôn ăn cả ba món ăn này liên tục không ngừng nghỉ trong từng khoảng khắc, cả ngày và đêm, trong suốt cuộc đời mỗi con người.

1. Thức thực (6 trần cảnh). Tâm thức gồm nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức trú ở các căn tương ứng là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân để phân biệt và nhận diện đối tượng của nó. Thức ăn của nhãn thức là ánh sáng, thức ăn của nhĩ thức là âm thanh, thức ăn của tỷ thức là mùi, thức ăn của thiệt thức là vị, thức ăn của thân thức là đụng chạm, thức ăn của ý thức là pháp trần. Các loại thức ăn này (thức thực) liên tục không ngừng nghỉ cả ngày và đêm, lúc thức cũng như ngủ, được bơm qua các căn để thoả mãn sự nhấm nháp của tâm thức. Giả sử mắt mà không được tiếp xúc với ánh sáng, tai không được tiếp xúc với âm thanh…tâm ta sẽ thấy bứt rứt khó chịu, đó là dấu hiệu của nhãn thức, nhĩ thức …bị bỏ đói và tâm sẽ kích hoạt để thân và tâm đi tìm ánh sáng và âm thanh cho nó ăn.

2. Xúc thực (cảm xúc). Cảm giác thoả mãn, dễ chịu là món ăn ưa thích của tâm. Sự hài lòng và tìm kiếm sự hài lòng luôn thường trực trong tâm. Ví dụ khi nóng ta bật quạt, khi lạnh ta đắp chăn. Sự hài lòng trong việc bật quạt hay đắp chăn là xúc thực. Còn nóng lạnh là thức thực là món ăn của thân thức như đã nói ở trên.

3. Tư niệm thực (ý nghĩ, tư tưởng). Tâm ta luôn “nhai nuốt” hết ý nghĩ này đến ý nghĩ khác không ngừng nghỉ như bò nhai cỏ. Khi ngồi thiền, neo tâm vào đề mục thiền, ta thấy rất khó khăn vì thói quen ăn không ngừng nghỉ của tâm vì quá nghiện với loại thức ăn này. Tư niệm thực chính là “tiếng nói trong tâm”, gây nên việc không nói hay nói ít mà tâm loạn. Đây là bản chất của tâm khi nghiện món ăn tư niệm thực này. Để khắc chế hay giảm bới cơn nghiện này thì ta tập cho tâm nghỉ ngơi (neo tâm) trên điểm xúc chạm hơi thở đầu mũi, hay phùng xẹp ở bụng khi thực hành thiền Tứ Niệm Xứ. Thực hành lâu ngày thì tâm sẽ bớt nghiện loại thức ăn này khi nó dừng ăn. Khi tâm dừng ăn tư niệm thực chính là lúc tâm neo vào các đối tượng, các đề mục, ở đây và bây giờ xung quanh ta, lúc này ta đang có chánh niệm. Như vậy chánh niệm rất quan trọng vì nó là kỹ thuật cơ bản để loại bỏ tư niệm thực hay nói cách khác là loại bỏ tiếng nói trong tâm. Chính vì thế việc nói ít hay nói nhiều không quan trọng bằng việc ta nói có chánh niệm hay không. Nếu không nói mà có chánh niệm lúc này ta có thực tại. Khi bắt đầu nói mà ta có các điểm neo tâm vào sau mỗi câu nói thì ta gọi là thực tại gần nên cũng có thể nói là nói trong chánh niệm hay chánh niệm liên tục.

Kết luận: Để “nói nhiều trong chánh niệm và nói ít mà tâm không loạn” thì cần có 4 điểm neo tâm như sau:

1. Thấy tâm neo vào điểm xúc chạm hơi thở hay phùng xẹp ở bụng (mọi lúc, mọi nơi)

2. Biết nói với ai (tuổi tác, trình độ, mức thân quen, ….)

3. Biết nói cái gì (lý luận phù hợp với căn cơ), vào lúc nào (thời điểm thích hợp)

4. Biết khi nói với tâm gì (nói với tâm tham, sân, si hay với tâm từ, bi, hỷ, xả)

Áp dụng nhưng điều trên ta không những đạt được thành tựu trong việc thực hành thiền Minh Sát Tứ Niệm Xứ, mà còn có được kết quả tốt đẹp trong công việc ở mọi lúc mọi nơi. Hiểu đúng pháp hành ta sẽ thực hiện đúng và thuận lợi. Hiểu sai pháp hành ta sẽ thấy khúc mắc và khó khăn. Thế gian pháp và xuất thế gian pháp dung hoà lẫn nhau chứ không phủ định nhau. Luân hồi là một thực tại và Niết bàn cũng là một thực tại. Cả hai đều ở trong thực tại. Tiếp xúc được với thực tại sẽ cho ta cơ hội thấy cả hai, để lúc đó tâm sẽ tự động hướng về pháp cao thượng (Niết bàn). Như vậy nói nhiều, nói ít hay im lặng không phải là vấn đề, mà vấn đề là ta có có được chánh niệm hay không trong lúc nói, cả khi im lặng và phương pháp thực hành  để có được chánh niệm mọi lúc mọi nơi mà thôi.

viết bởi Thấy và Biết.

Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn

Ngã chia làm 2: bản ngã (vọng tâm) và chơn ngã (chơn tâm). Quán chiếu nội tâm, tìm Bản Tâm, Vọng Tâm mà biến, hiện Chân Tâm. Chân Tâm rạng r...